thông tin tuyển dụng

Thông báo tuyển dụng công chức làm việc tại UBND các phường thuộc quận Long Biên năm 2023
Ngày đăng 09/03/2023 | 14:07  | Lượt xem: 196

PHƯỜNG THẠCH BÀN - QUẬN LONG BIÊN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Xem thông báo tại đây: Thông báo số 109/TB - UBND quận Long Biên
Tham nhũng và những giải pháp phòng, chống tham nhũng (bài 2)
Ngày đăng 20/11/2022 | 15:57  | Lượt xem: 966

Tham nhũng và những giải pháp phòng, chống tham nhũng (bài 2)

1. Thực trạng và kết quả phòng chống tham nhũng ở Việt Nam

 

Tình trạng tham ô, lãng phí, tiêu cực và tham nhũng tại Việt Nam diễn ra trong nhiều thập niên qua, xảy trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội và ở tất cả các ngành, các cấp. Tham nhũng, lãng phí đã gây ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội và làm giảm niền tin của nhân dân với  Đảng và Nhà nước. Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế công bố xếp hạng CPI năm 2020, Việt Nam đứng thứ 104/180 quốc gia được xếp hạng với 36 điểm, tăng 5 điểm và 15 bậc so với năm 2014. Tuy nhiên, vẫn thấp hơn điểm trung bình của khu vực (45 điểm) và nằm trong số 2/3 các quốc gia trên thế giới tham nhũng nghiêm trọng (dưới 50 điểm).

 

Tại Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ tại Đại hội XIII của Đảng đã nêu: “Tham nhũng trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với biểu hiện ngày càng tinh vi; tình trạng nhũng nhiễu người dân, doanh nghiệp vẫn còn khá phổ biến, gây bức xúc trong xã hội… Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”. Mỗi khi người dân, doanh nghiệp đi xin giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, đất, đi khám bệnh, xin cho con đi học, hoặc chuyển trường, xin vốn đầu tư, dự án xây dựng… đều phải có “lót tay”, “bôi trơn” thì mọi việc mới nhanh chóng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gọi dạng tham nhũng này là “tham nhũng vặt”, gây bức xúc, khó chịu cho mọi người và toàn xã hội. Nhiều vụ tham nhũng lớn, có tổ chức, nhiều người tham gia, có sự cấu kết của nhiều doanh nghiệp và cán bộ nhà nước thoái hóa, biến chất như: Vụ án Epco - Minh Phụng từ những năm 80 của thế kỷ trước, với 77 bị can và 2 án tử hình; vụ án tại Tập đoàn Vinashin, với Phạm Thanh Bình cùng 8 đồng phạm; vụ án tham ô và cố ý làm trái tại Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc bị tử hình, 8 bị can khác chịu hình phạt từ 4 đến 22 năm tù. Không phải đến bây giờ mới có tham nhũng. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, vụ án của Trần Dụ Châu, nguyên Giám đốc Nha Quân nhu - Bộ Quốc phòng bị xử ngày 5-9-1950 tại thị xã Thái Nguyên, can tội “biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến”, bị tuyên án tử hình, tịch thu 3/4 tài sản, tịch thu tang vật hối lộ. Bác Hồ khi bác đơn xin tha tội chết của Trần Dụ Châu, Bác đã nói với đồng chí Trần Đăng Ninh: Với loài sâu mọt đục khoét nhân dân cũng thế, nếu phải giết đi một con sâu mà cứu cả rừng cây thì việc đó là cần thiết”. Tham nhũng không được ngăn chặn và đẩy lùi, mà còn phát triển tinh vi hơn, không chỉ các ngành kinh tế mà còn cả các ngành bảo vệ pháp luật, không chỉ cán bộ cấp thấp mà còn cả cán bộ cấp cao. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đánh giá: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cấp cao, suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống…, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc. Do đó, Đảng và Nhà nước chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra và truy tố xét hỏi, xử lý nghiêm những người vi phạm về tham nhũng, lãng phí. Đặc biệt là từ năm 2016, sau Đại hội XII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng (PCTN) Trung ương đã phát động một chiến dịch PCTN rộng rãi, toàn diện, quyết liệt với phương châm: Bất kể người đó là ai, ở cương vị nào, không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong đấu tranh và xử lý tham nhũng. Từ đó công tác PCTN đã đạt được những kết quả rất tích cực, nhiều vụ án tham nhũng từ Trung ương đến địa phương đều được xét xử nghiêm minh, kể cả các Ủy viên BCH Trung ương và Ủy viên Bộ Chính trị. Kết quả là:“Trong 5 năm (chủ yếu là 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4), toàn Đảng đã xử lý kỷ luật gần 1.400 tổ chức đảng và hơn 74.000 đảng viên ở các cấp. Trong số bị kỷ luật, có 82 tỉnh ủy viên và tương đương; hơn 1.500 huyện ủy viên và tương đương; gần 3.000 đảng viên bị kỷ luật bằng hình thức cách chức; hơn 8.700 bị khai trừ ra khỏi Đảng và hơn 4.300 cán bộ, đảng viên phải xử lý bằng pháp luật (1). Thiếu tướng Nguyễn Văn Tín, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân cho biết: Từ năm 2013 đến 2020, cả nước đã có hơn 1.900 vụ án tham nhũng bị điều tra, xét xử; 131.000 đảng viên, trong đó có hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (có 27 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Ủy viên Bộ Chính trị, 30 sĩ quan cấp tướng thuộc lực lượng vũ trang) đã bị xử lý kỷ luật. Riêng 6 tháng đầu năm 2021, liên quan đến tham nhũng đã có 266 vụ/646 bị can bị khởi tố, 250 vụ với 643 bị can bị truy tố. Ban Chỉ đạo PCTN Trung ương đã kiểm tra xử lý kỷ luật 12 tổ chức đảng và 20 đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý (trong đó có 3 ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương, 2 thứ trưởng, 1 nguyên chủ tịch tỉnh, 1 nguyên phó bí thư tỉnh ủy, 13 sỹ quan cấp tướng trong lượng vũ trang)(2). Hàng loạt các vụ án tham nhũng lớn với cán bộ cao cấp được đưa ra xét xử như: Vụ án PMU 18 của Bộ Giao thông vận tải xảy ra năm 2006. Vụ án tại Tổng Công ty Xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC) với Trịnh Xuân Thanh và Đinh La Thăng. Vụ vi phạm quản lý đất đai tại Đà Nẵng với 19 bị can và 2 cựu chủ tịch UBND TP. Đà  Nẵng; Vụ án nhận hối lộ tại Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao, liên quan đến Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Các vụ án liên quan đến các cơ quan bảo vệ pháp luật như: Vụ thâu tóm đất vàng tại Công ty Nova Bắc Nam 79 và Novaland tại Đà Nẵng lên quan đến hai cựu thứ trưởng Bộ Công an. Vụ án tướng công an thuộc Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm công nghệ cao (C50 Bộ CA)  bảo kê cho đường dây đánh bạc trực tuyến lớn nhất Việt Nam. Vụ án buôn lậu và sản xuất 200 triệu lít xăng giả tại Đồng Nai, đã có nhiều cán bộ, Bộ đội Biên phòng và Cảnh sát Biển tiếp tay; Vụ án của Nguyễn Thị Kim Anh, Phó Phòng PCTN, Thanh tra Bộ Xây dựng; Vụ án Nguyễn Kiên Cường, Chánh Thanh tra Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Thái Bình. Ngay trong Ngành Lương y như từ mẫu có vụ án tại Bệnh viện Bạch Mai và Bệnh viện Tim Hà Nội, lãnh đạo bệnh viện đã câu kết với công ty tư nhân để nâng giá thiết bị y tế hưởng lợi bất chính. Gần đây nhất Bộ Công an đã khởi tố vụ đẩy giá kít xét nghiệm Covid-19 của Công ty Cổ phần Việt Á, liên quan đến nhiều quan chức, nhiều bộ, ngành như lãnh đạo Bộ Khoa học và công nghệ, Bộ Y tế, Học viện Quân y và cán bộ Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) của nhiều tỉnh, thành trong cả nước. Hai Ủy viên BCH Trung ương đã bị khai trừ ra khỏi Đảng, bị bắt tạm giam để điều tra. Đảng, Nhà nước xác định phải tiếp tục đẩy mạnh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh PCTN cả trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài Nhà nước. Kết luận số 21 KL/TW ngày 25-10-2021 Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương Đảng khóa XIII nêu: Triển khai quyết liệt, thường xuyên, toàn diện, đồng bộ công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Chủ động phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực; kiên quyết thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.

 

Nhận diện tham nhũng

 

Từ thực trạng cuộc đấu tranh PCTN ở nước ta cho thấy cần nhận rõ các dạng tham nhũng chính để có giải pháp phòng chống hiệu quả:

 

Tham nhũng về kinh tế: Đây là dạng tham nhũng rất phổ biến diễn ra mọi ngõ ngách của đời sống xã hội, từ quan chức cấp cao đến cấp thấp. Nhưng dễ nhận biết, họ dùng chức vụ và quyền hạn được giao, hạch sách, nhũng nhiễu, gây khó khăn để thu về tiền bạc, vật chất… Dạng này thể hiện từ tham nhũng vặt, nhận phong bì, đến tham nhũng lớn, nhận hối lộ hàng chục tỷ đồng, biệt thự, đất đai, ô tô…

 

Tham nhũng quyền lực: Là dạng tham nhũng mà người có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng vị thế để đưa những người thân tín, họ hàng, cánh hẩu và người đút lót hối lộ vào giữ những chức vụ, vị trí quan trọng trong bộ máy của các cơ quan đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội nhằm vụ lợi. Đây là dạng tham nhũng rất nguy hiểm và khó phát hiện. Khi họ sắp xếp người không có đạo đức, năng lực chuyên môn vào những vị trí quan trọng, nó không chỉ ảnh hưởng trước mắt mà cả lâu dài, ảnh hưởng cả thế hệ mà khó khắc phục hậu quả.

 

Tham nhũng chính trị: Là dạng tham nhũng của người có quyền lực tác động vào các quyết định về cơ chế, chính sách, những quyết định lớn của Đảng và Nhà nước nhằm thu lợi cho bản thân, gia đình, hoặc một nhóm người. Họ có thể cấu kết với người cùng có quyền lực để thay đổi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm mưu cầu lợi ích cho ngành, địa phương, đơn vị mình hoặc nhóm người có cùng lợi ích. Như việc ra các quy định về chính sách thuế, tiền lương, tiêu chuẩn bổ nhiệm, hưu trí, hoặc ra các quyết định đầu tư dự án lớn: xây dựng sân bay, cảng biển, khu đô thị, …

 

2. Đảng, Nhà nước ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh PCTN, lãng phí

 

Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bác Hồ quan niệm tham ô, lãng phí, quan liêu là “'giặc nội xâm”, là kẻ thù của nhân dân. Người khẳng định: “Tham ô là trộm cắp. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám. Chống tham ô, lãng phí và quan liêu như chống “giặc ở trong lòng”. Đảng và Nhà nước ta xác định tham nhũng, lãng phí ảnh hưởng sâu sắc đến phát triển kinh tế - xã hội, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, ảnh hưởng đến sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Nên các kỳ đại hội Đảng, đều coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ có đạo đức cách mạng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn của Đảng và chế độ. Từ Đại hội VI của Đảng đến nay, không có nhiệm kỳ nào Trung ương Đảng không có nghị quyết về xây dựng Đảng. Đặc biệt, ba Đại hội XI, XII, XIII đều có Nghị quyết Trung ương 4 của các khóa về việc đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các nghị quyết được cụ thể hóa thành các văn bản pháp luật của Nhà nước theo từng thời kỳ, làm căn cứ pháp lý để các cơ quan nhà nước và nhân dân cùng thực hiện.

 

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, ngày 23-11-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64, Điều 1 Sắc lệnh: “Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra đặc biệt có ủy nhiệm đi giám sát tất cả công việc và nhân viên của các UBND và các cơ quan Chính phủ. Điều 2 chỉ rõ: “Ban Thanh tra đặc biệt có toàn quyền: Điều tra, hỏi chứng, xem xét các tài liệu giấy tờ của các UBND hoặc các cơ quan Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát; Đình chức bắt giam bất cứ nhân viên nào trong UBND hay của Chính phủ đã phạm lỗi trước khi mang ra Hội đồng Chính phủ hay tòa án đặc biệt xét xử”. Đây là cơ quan thanh tra, chống tham nhũng đầu tiên của nước ta. Ngày 27-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 223. Sắc lệnh có 5 điều trong đó quy định rõ về việc xử phạt tội đưa hối lộ cho công chức, tội nhận hối lộ, biển thủ công quỹ. Sắc lệnh này là đạo luật chống tham nhũng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 18-12-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 138B-SL/QD thành lập Ban Thanh tra Chính phủ, trực thuộc Thủ tướng, thay thế Ban Thanh tra đặc biệt tại Sắc lệnh số 64. Hiến pháp năm 1992, lần đầu tiên nói đến chống tham nhũng tại Điều 8 ghi: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải … kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng”.  Sau đó Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) khóa X đã ban hành Pháp lệnh số 02-PL/CTN ngày 26-2-1998 về chống tham nhũng. Đây là pháp lệnh chống tham nhũng đầu tiên của nước ta. Pháp lệnh gồm 5 chương với 38 điều, trong đó quy định khái niệm về tham nhũng các hành vi tham nhũng, các biện pháp ngăn ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng. Tiếp đó là pháp lệnh số 22/2000/PL-UBTVQH10 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh chống tham nhũng. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả chống tham nhũng. Năm 2005 Quốc hội khóa XI đã nâng cấp Pháp lệnh lên thành Luật PCTN. Luật PCTN số 55/2005/QH11, được Quốc hội khóa XI thông qua tại Kỳ họp thứ 8, ngày 29-11-2005. Luật có 8 chương với 92 điều. Luật này quy định về phòng ngừa, phát hiện, xử lý người có hành vi tham nhũng và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong PCTN. Đến ngày 4-8-2007, Quốc hội khóa XII ban hành Luật PCTN số 01/2007/QH12,  sửa đổi, bổ sung 2 điều của Luật PCTN năm 2005. Năm 2012 được tiếp tục sửa đổi bổ sung  bằng Luật PCTN số 27/2012/QH13, được Quốc hội khóa XIII, Kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 23-11-2012. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2013/NĐ-CP ngày 17-6-2013 Quy định chi tiết một số điều của Luật PCTN. Hiến pháp năm 2013, tại khoản 2 Điều 8 tiếp tục khẳng định: "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải... kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền". Sau hơn 10 năm thi hành, Luật PCTN năm 2005 và các luật sửa đổi, đã đạt được kết quả rất quan trọng, góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo, uy tín của Đảng, hiệu lực quản lý nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Để luật hóa Hiến pháp 2013, ngày 20-11-2018 tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật PCTN số 36/2018/QH14. Luật PCTN năm 2018 gồm 10 chương với 96 điều. Luật bổ sung hoàn thiện các quy định mới: về hành vi tham nhũng; đối tượng và loại tài sản phải kê khai, thu nhập; về công khai tài sản, thu nhập; Quy định những việc cán bộ và người đứng đầu không được làm, quy định trách nhiệm của người đứng đầu và người liên đới. Qua đó cho thấy Đảng, Nhà nước ta thường xuyên xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về PCTN, lãng phí, thể hiện sự quyết tâm, kiên trì đấu tranh PCTN, lãng phí.

 

Xây dựng bộ máy PCTN hiệu lực, hiệu quả

 

Cùng với việc hoàn thiện thể chế về PCTN, Đảng Nhà nước chú ý xây bộ máy PCTN. Ngoài các cơ quan thuộc khối nội chính: Công an, Quân đội, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân là các cơ quan thường xuyên đấu tranh để bảo vệ Hiến pháp, pháp luật và đấu tranh PCTN, Việt Nam có cơ quan chuyên trách PCTN là Ban Chỉ đạo PCTN, tiêu cực Trung ương và cấp tỉnh. Ban Chỉ đạo PCTN, tiêu cực Trung ương do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng Ban, 6 phó trưởng ban và 11 ủy viên đều là các Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương Đảng, đồng thời là thủ trưởng các ban, ngành nội chính, Ủy ban Kiểm tra, Ban Tổ chức... Ban Chỉ đạo PCTN, tiêu cực Trung ương có nhiệm vụ: Tham mưu đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư về các chủ trương, chính sách trong PCTN và chỉ đạo đôn đốc, điều hòa kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác PCTN. Có quyền yêu cầu các đảng đoàn, ban cán sự đảng, các tỉnh ủy, thành ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương và các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, tổ chức thực hiện, báo cáo kết quả công tác PCTN theo chỉ đạo của Trung ương. Cơ quan Thường trực là Ban Nội chính Trung ương. Các cơ quan có trách nhiệm thực hiện công tác PCTN theo chức năng được giao. Cụ thể là :

 

Ban Nội chính Trung ương: Ngoài nhiệm vụ của Ban Nội chính, đồng thời là Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo PCTN có nhiệm vụ chủ trì và phối hợp với các cơ quan chuyên môn để đôn đốc, kiểm tra giám sát và xử lý các vi phạm pháp luật, tham nhũng, lãng phí.

 

Ủy ban Kiểm tra Trung ương và ủy ban kiểm tra đảng các cấp: có nhiệm vụ kiểm tra mọi đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên, xử lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên theo thẩm quyền. Đồng thời, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên trong việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết của cấp ủy.

 

Thanh tra Chính phủ là cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác PCTN trên phạm vi cả nước. Có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thanh tra việc chấp hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người dân. Trong Thanh tra Chính phủ có đơn vị chuyên trách công tác PCTN.

 

----------------------------------

(1) PGS, TS. Phạm Minh Chính – Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trưởng Ban Tổ chức Trung ương (nay là Thủ tướng Chính phủ), Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử ngày 10-6-2016.

 

(2) Thiếu tướng Nguyễn Văn Tín – Phó Cục trưởng Cục Tuyên huấn - Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân, Chống tham nhũng: “Chúng ta càng làm quyết liệt, họ càng chống phá”, bài phỏng vấn của VOV.VN do Thanh Hà và Thi Uyên thực hiện 31-12-2021.
 

(Còn nữa...)

Lê Xuân Lịch
Nguyên Phó Vụ trưởng, Ban Tổ chức Trung ương

Thông tin tuyển dụng công nhân công ty CP nhực cao cấp Hàng không
Ngày đăng 07/11/2022 | 15:45  | Lượt xem: 1176

.

Công ty CP Nhựa cao cấp hàng không thông báo tuyển dụng công nhân

cụ thể xem chi tiết tại đây

Tăng cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Ngày đăng 06/09/2022 | 09:18  | Lượt xem: 1539

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên có vị trí, vai trò quan trọng và luôn mang tính thời sự. Trước tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” như hiện nay thì tăng cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp bách trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người nhấn mạnh, để Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đạo đức, là văn minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(1).

tang cuong giao duc 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng thử máy cấy lúa cải tiến tại Trại thí nghiệm trồng lúa Sở Nông lâm Hà Nội (năm 1960)_Ảnh: Tư liệu

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh đạo đức là cái gốc của con người trong mọi thời đại, mà còn đưa ra khái niệm đạo đức mới, với nội dung mới, phản ánh đạo đức ở tầm cao hơn, rộng hơn, sâu sắc hơn, đó là đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Người chỉ rõ, đạo đức cách mạng làm nên sức mạnh của Đảng và là một nhân tố quan trọng bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức bắt nguồn từ những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó còn là sự vận dụng và phát triển sáng tạo đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; sự tiếp thu và phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại mà Người đã tiếp cận được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách, vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đối với cách mạng Việt Nam, sự đòi hỏi về đạo đức còn cao hơn, bởi cách mạng Việt Nam phải tiến hành trong một hoàn cảnh đặc biệt: Tiến hành ở một nước nông nghiệp lạc hậu và phải đương đầu với các thế lực thù địch, phản động nhất, xảo quyệt nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cách mạng nhất định sẽ thành công, nhưng thành công nhanh hay chậm, mức độ thành công lớn hay nhỏ... tùy thuộc vào đạo đức cách mạng của những người làm cách mạng, trình độ giác ngộ cách mạng và ý chí chiến đấu của quần chúng nhân dân. Người nhấn mạnh: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(2). “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(3).

Đề cao vai trò của tư tưởng, tinh thần, đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Có người nói: Lúc này mà xem trọng tinh thần tư tưởng là không duy vật biện chứng. Các cô, các chú có biết vì sao mà cách mạng của ta thành công không? Vì tinh thần. Lúc bấy giờ thực dân, phong kiến có công an, quân đội, cảnh sát, chính quyền - tất cả, Đảng ta chỉ có hai bàn tay không. Vì sao ta thành công? - Vì ta đoàn kết! Lấy gì mà đoàn kết? Lấy tinh thần!”(4).

Với tinh thần ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng và trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người không ngừng giáo dục những phẩm chất đạo đức cách mạng cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đạo đức cách mạng, một mặt, là một yêu cầu tất yếu của sự nghiệp cách mạng trước đây cũng như hiện nay; mặt khác, là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của những người lãnh đạo. Trong lịch sử các nước phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng, những vị vua nắm quyền trị nước cũng như những lãnh tụ dân tộc muốn lãnh đạo được nhân dân và được nhân dân tin theo, đều phải là những người gương mẫu về đạo đức.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời mình phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Bản thân Người nêu cao tinh thần tự tu dưỡng, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng - những phẩm chất đạo đức cao đẹp, trong đó bao hàm nhiều giá trị mới, tích cực và tiến bộ. Người quan niệm đạo đức cách mạng là nền tảng tạo ra động cơ hành động đúng đắn, tạo ra ý chí, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của người cách mạng. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng. Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước, khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần chất phác, giản dị, khiêm tốn; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Người chỉ rõ: “Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình. Khi cần, thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc. Đó là biểu hiện rất rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng”(5).

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò, tác dụng cũng như những biểu hiện cao quý của đạo đức cách mạng và chứng thực điều đó qua tấm gương của những chiến sĩ cộng sản tiền bối đã làm nên truyền thống vẻ vang của Đảng, của cách mạng: “Trong Đảng ta, các đồng chí Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai và nhiều đồng chí khác đã vì dân, vì Đảng mà oanh liệt hy sinh, đã nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng chí công vô tư cho tất cả chúng ta học tập”(6).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao cả hai mặt đức và tài ở mỗi con người. Trong mối quan hệ giữa đạo đức và tài năng, Người khẳng định đạo đức là gốc, quyết định sức mạnh tinh thần to lớn của con người, sức mạnh của đoàn kết dân tộc; nhờ đó mà đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng, góp phần to lớn vào sự thành công của cách mạng nước ta. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức nói chung cũng như đạo đức cách mạng nói riêng cho mọi người, trước hết là cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Tựu trung lại, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng gồm những điểm cơ bản sau đây:

Một là, phẩm chất trung với nước, hiếu với dân.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ quan niệm đạo đức cũ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong xã hội phong kiến phương Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, cao rộng hơn là “trung với nước, hiếu với dân”. Người khẳng định: “Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”(7). Chỉ dẫn đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho mỗi người Việt Nam, không chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, mà còn lâu dài mãi mãi về sau.

Hai là, tình yêu thương con người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về tình yêu thương con người rất toàn diện và độc đáo. Người xác định tình yêu thương con người là một phẩm chất cao đẹp nhất trong tình cảm đạo đức của loài người. Người luôn dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, tình yêu thương đồng bào, đồng chí rất bao la, sâu rộng và toàn diện, không phân biệt vùng, miền, trẻ, già, trai, gái..., hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người. Tình yêu thương con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tấm lòng bao dung cao cả của một người Cha, đặc biệt là đối với những người phạm phải sai lầm, khuyết điểm. Người căn dặn: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác”(8). Chính vì vậy, trong Di chúc thiêng liêng để lại cho muôn đời sau, Người căn dặn Đảng: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”(9); mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến tình yêu thương con người.

Ba là, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, sáng tạo, có kế hoạch, có năng suất cao, với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, vì nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to. Kiệm còn có nghĩa là không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Liêm tức là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc nào của Nhà nước, của nhân dân; phải trong sạch, không tham lam, không tham địa vị, không ham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình, nhờ đó mà quang minh, chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn; đối với mình thì không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình; đối với người thì không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc; đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Chí công vô tư tức là “làm việc vì sự nghiệp chung, đặt lợi ích công lên trên hết, trước hết; không tư lợi, vụ lợi, không vì lợi ích riêng”(10). Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình phải đi sau, phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, mỗi người, nhất là những người có vị trí ảnh hưởng đối với xã hội, cộng đồng, phải luôn phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện và thực hành theo bốn đức tính: cần, kiệm, liêm, chính; thiếu một đức tính cũng không thể thành người. Bởi, “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông/Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc/Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính/Thiếu một mùa, thì không thành trời/Thiếu một phương, thì không thành đất/Thiếu một đức, thì không thành người”(11).

Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng.

Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng một câu thơ “Quan sơn muôn dặm một nhà/Bốn phương vô sản đều là anh em!”(12), là tinh thần đoàn kết giữa những người cộng sản với các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động trên thế giới mà Người đã dày công vun đắp bằng thực tiễn hoạt động cách mạng của mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Đó cũng là tinh thần đoàn kết, hợp tác và hữu nghị của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, vì mục tiêu hòa bình, công lý, tiến bộ xã hội và độc lập dân tộc.

Đánh giá cao vai trò của đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chí của một người cán bộ tốt, đó là người cán bộ phải vừa có tài, vừa có đức, trong đó, đức là gốc. Chính Người là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, là kết tinh tất cả những phẩm chất tốt đẹp nhất của người Việt Nam và những phẩm chất đạo đức cộng sản cao quý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Những quy tắc đạo đức mà Người nêu ra đã trở thành vũ khí tinh thần mạnh mẽ của cả dân tộc ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, vì hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới. Trong suốt 53 năm thực hiện Di chúc của Người, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng tiếp tục là ngọn đuốc soi đường, dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của đất nước ta, nhất là trong bối cảnh mới hiện nay.

Tiếp tục tăng cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Để mỗi cán bộ, đảng viên luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức tốt đẹp của mình, giác ngộ lý tưởng cách mạng, vững vàng trong mọi điều kiện, môi trường xã hội khác nhau thì cùng với sự tự giác rèn luyện, phấn đấu, còn phải cần đến sự giúp đỡ, kiểm tra, giám sát của Đảng. Đặc biệt, trong điều kiện Đảng trở thành đảng cầm quyền, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng được Người coi là công việc càng phải tiến hành thường xuyên, liên tục hơn. Với nhãn quan đặc biệt nhạy bén về chính trị, Người đã nhìn nhận rõ tính hai mặt vốn có của quyền lực: Một mặt, quyền lực có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng đúng; mặt khác, quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực bị thoái hóa, biến chất, sa vào con đường tham muốn quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực; lợi dụng quyền lực để lạm quyền, lộng quyền, biến quyền lực của nhân dân thành đặc quyền, đặc lợi của cá nhân... Vì vậy, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để ngăn chặn, đẩy lùi và liên tục tẩy trừ mọi tệ nạn do sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên gây ra, trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn diện Nhà nước và xã hội. Nhận thức rõ sự tác động qua lại giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và môi trường xã hội, cũng như những đổi thay có thể diễn ra trong nhân cách cùng ý thức và hành vi đạo đức của cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến một nhận định mang tính triết lý và thực tiễn sâu sắc, có giá trị to lớn trong việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(13). Đây chính là lời cảnh tỉnh sâu sắc đối với các đảng cộng sản cầm quyền, đối với mỗi đảng viên cộng sản, nhất là những đảng viên cộng sản có chức, có quyền, giữ các vị trí then chốt trong bộ máy nhà nước.

tang cuong giao duc 2
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với đồng bào dân tộc thôn Đăk Mút, xã Đăk Mar,
huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum_Ảnh : TTXVN

Qua hơn 35 năm đổi mới, với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Việc thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội có bước chuyển biến tích cực, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy. Đa số cán bộ, đảng viên tích cực trau dồi, rèn luyện phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, tiên phong, gương mẫu, năng động, sáng tạo trong công tác, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, trước những tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, trong đó có mặt trái, mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự phát triển của khoa học và công nghệ... một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Nhận định những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, ngay từ Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994), Đảng đã chỉ ra những biểu hiện của tình trạng này và coi đó là một trong bốn nguy cơ đối với cách mạng Việt Nam(14). Tại các kỳ Đại hội Đảng và nhiều hội nghị Trung ương tiếp theo, Đảng có những đánh giá thẳng thắn về các nguy cơ này; trong đó, nổi lên các biểu hiện đáng lo ngại là: Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, phai nhạt lý tưởng, niềm tin đối với Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt nguy hiểm là sự “trỗi dậy” của chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, chạy theo các giá trị vật chất, xem thường các giá trị tinh thần; chỉ lo vun vén cho cá nhân mà thờ ơ, lảng tránh trách nhiệm với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Tính trung thực (cả trong tư tưởng, chính trị và đạo đức) của không ít cán bộ, đảng viên bị suy giảm nghiêm trọng. Nói không đi đôi với làm. Kèn cựa địa vị, tranh chức tranh quyền, bằng mọi thủ đoạn để tìm kiếm các mối quan hệ, liên kết “lợi ích nhóm” bất chính “lợi mình hại người”, dùng tiền bạc do tham nhũng để mua chức, mua danh, bất chấp cả liêm sỉ, đạo lý. Nạn tham nhũng tồn tại kéo dài, ngày càng diễn biến phức tạp và tinh vi, gây nhức nhối về đạo đức trong Đảng, làm suy giảm nghiêm trọng niềm tin của nhân dân và xã hội đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ.

Như vậy, thực trạng suy giảm đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gây hậu quả rất nặng nề, làm tổn thương đến uy tín, thanh danh của Đảng, mà nếu không được ngăn chặn và đẩy lùi triệt để thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Tâm trạng xã hội và ý nguyện của nhân dân lúc này là thiết tha mong muốn, đồng thời nghiêm khắc đòi hỏi Đảng phải trong sạch, vững mạnh bắt đầu từ đạo đức. Cán bộ, đảng viên phải chứng tỏ trên thực tế, bằng những việc làm, ứng xử và hành xử, là những người có đạo đức.

Nhìn nhận rõ thực trạng đó, tại Đại hội XII, Đảng đã nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức và đây là một trong những điểm mới, rất căn bản và trọng yếu trong việc mở rộng nội dung xây dựng Đảng: “Tập trung thực hiện mục tiêu: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức””(15). Lần đầu tiên, Đảng đưa nội dung xây dựng Đảng về đạo đức - một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng - vào trong văn kiện. Đại hội XIII của Đảng bổ sung một thành tố nữa vào công tác xây dựng Đảng là cán bộ: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(16). Đó vừa là định hướng thực tiễn, vừa là chỉ báo đánh giá kết quả xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Thực hiện tốt nội dung xây dựng Đảng về đạo đức sẽ góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩ#m chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đây chính là khâu đột phá về lý luận và thực tiễn đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền đang thực thi trọng trách lịch sử mà dân tộc và nhân dân ủy thác: Lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới, vì Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Trong thời gian tới, để tăng cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần đặc biệt quan tâm đến một số nội dung sau:

Một là, mọi cán bộ, đảng viên phải tự giác học tập và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đây phải được xác định là biện pháp quan trọng hàng đầu, là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Trước hết, việc học tập, tự học tập để nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về đạo đức cách mạng phải được thực hiện thường xuyên, liên tục. Các nội dung học tập phải được đưa vào sinh hoạt chi bộ và trở thành nền nếp. Thường xuyên trao đổi, thảo luận, tự phê bình và phê bình, đóng góp ý kiến xây dựng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của cơ quan, đơn vị, địa phương. Biểu dương những việc làm tốt, kịp thời phát hiện, uốn nắn những việc làm chưa tốt, nhất là trong việc vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác vào việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác phấn đấu và tu dưỡng, rèn luyện theo những chuẩn mực đạo đức được xây dựng ở địa phương, cơ quan, đơn vị, trong từng tổ chức đảng.

Hai là, nâng cao chất lượng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; theo đó, tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, đặc biệt là quán triệt và thực hiện nghiêm túc Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””. Đây được xác định là khâu mấu chốt để thực hiện việc nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm, khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.

tang cuong giao duc 3
Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Si  Ma Cai, tỉnh Lào Cai giúp dân_Nguồn: baolaocai.vn

Để thực hiện tốt nội dung này, cần giữ vững các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, thực hiện nghiêm các nghị quyết, quy định của Đảng về thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu(17).

Ba là, coi trọng xây dựng quy chế làm việc, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức; đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi cá nhân, tổ chức. Một mặt, để nêu cao tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, yêu cầu đặt ra trước hết là phải xác định rõ trách nhiệm, nhiệm vụ của mỗi người, mỗi tổ chức thì tổ chức, đơn vị đó mới hoạt động có hiệu quả. Thực tế cho thấy, phải có trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng thì mỗi cá nhân mới có đóng góp cụ thể cho tổ chức, mới “nói đi đôi với làm”, tham gia cùng tập thể chống chủ nghĩa cá nhân. Mặt khác, để động viên, khuyến khích tinh thần trách nhiệm và hạn chế thói lười biếng, vô trách nhiệm, ỷ lại, tư lợi cá nhân của cán bộ, đảng viên, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, đảng viên. Cấp ủy các cấp cần thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, giám sát về những nội dung này; thông qua kiểm tra, giám sát để quản lý chặt chẽ từng cán bộ, đảng viên ở nơi công tác, nơi cư trú và khi công tác xa cơ quan, đơn vị, nhất là những cán bộ có chức, có quyền, trong các lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra sai phạm, như quản lý kinh tế, công tác cán bộ... Đồng thời, phát hiện và xử lý kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm tư cách, thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống, những phần tử cơ hội, bất mãn, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng, vi phạm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng.

Bốn là, không ngừng hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật gắn với việc tăng cường hơn nữa tính nghiêm minh của kỷ luật đảng và pháp luật của Nhà nước. Quá trình đổi mới và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đặt ra yêu cầu phải khẩn trương hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật để hạn chế những “lỗ hổng” dễ bị lợi dụng; đặc biệt, cần tăng cường kỷ cương, phép nước, tính nghiêm minh của pháp luật để củng cố niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước. Đồng thời, tăng cường phát huy dân chủ trong Đảng và thực hiện kỷ luật đảng thật sự nghiêm minh; xử lý kịp thời, công khai những cán bộ, đảng viên vi phạm, dù ở cương vị, chức trách nào; kiên quyết đấu tranh với những thói hư, tật xấu trong Đảng.

Năm là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân trong giám sát cán bộ, công chức. Đây là giải pháp vừa cấp bách, vừa lâu dài của công tác xây dựng Đảng, cũng như trong việc phòng, chống chủ nghĩa cá nhân và ngăn chặn tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay. Bên cạnh đó, cần phát huy mặt tích cực của dư luận xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần giáo dục, răn đe đối với mọi cán bộ, đảng viên, đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống./.

----------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 622

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 601

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 292

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 580

(5), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 602

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 619

(8), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 672, 622

(10) Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức học tập, nỗ lực phấn đấu và rèn luyện, không ngừng làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, số 968, tháng 6-2021, tr. 5

(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 117

(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 670

(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 672

(14) Xem: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 53, tr. 198

(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 202

(16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 180

(17) Như: Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”;...

PGS, TS. VŨ TRỌNG LÂM

Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Theo Tạp chí Cộng sản

Đức Thi (st)

Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh
Ngày đăng 13/05/2022 | 09:12  | Lượt xem: 2053

Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn khoa học, hiện thực cách mạng. Người ta thường cho rằng Hồ Chí Minh là một nhà triết học hành động thì cũng có thể nói nhà nhân văn Hồ Chí Minh là một nhà nhân văn hành động - hành động nhằm giải phóng con người.

Yêu thương và quý trọng con người là một trong những đức tính đặc sắc nhất của đạo đức Hồ Chí Minh.

Trong cuốn sách “Học tập đạo đức Hồ Chí Minh”(*), đồng chí Võ Nguyên Giáp có bài viết nêu rõ: “Nghiên cứu cuộc đời và tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh,  chúng ta thấy rất rõ ở Người chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân ái, truyền thống văn hóa phương Đông, phương Tây và sự phát triển chủ nghĩa nhân đạo hiện thực của chủ nghĩa Mác. Sự tổng hợp đó hình thành nên chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - hiện thân cao nhất của chủ nghĩa nhân văn hiện thực của người Việt Nam trong thời đại cách mạng giải phóng dân tộc và xã hội chủ nghĩa”.

Đồng chí còn viết cụ thể: “Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở tấm lòng thương yêu con người, thương yêu nhân dân hết sức rộng lớn, sâu sắc. Người đã từng khái quát về triết lý cuộc sống: “Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề… là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ và bị áp bức”.

Cùng với ý ấy, Giáo sư Trần Văn Giàu viết: Như phần nhiều các nhà hiền triết cổ kim Đông Tây, thương người là một đức tính lớn của Cụ Hồ, nó quán triệt mọi lời nói, việc làm của Cụ từ ngày Cụ hoạt động cách mạng... Suốt sáu mươi năm, một lòng thương người, vì người, một lòng nhân ái.

Giáo sư đặt câu hỏi: “Vậy nếu thương người là nhân ái thì nhân ái của Cụ Hồ có gì khác với nhân ái Khổng, Mặc chăng hay chỉ là một?”. Và tự trả lời: “Có phần khác không nhỏ”. Thương người (của Cụ Hồ) là biết xót xa đến thân phận những người cùng khổ nhất trong số những người cùng khổ,... cũng là thương các dân tộc mang xiềng xích thực dân. Thương không phải là tỏ mối thông cảm từ trên và từ ngoài mà tìm cách làm cho người lao khổ và dân tộc bị áp bức tự mình cởi ách ngựa trâu, chứ không phải bằng cách mòn bánh xe, móng ngựa để du thuyết các vương hầu. Mỗi thời đại một khác. Đi vào cách mạng, Người đặt vấn đề tự do và vấn đề hạnh phúc đi đôi. Có người Mỹ nói Cụ Hồ vừa là Washington vừa là Lincoln. Đúng là như vậy. Mà Cụ Hồ còn đi xa hơn nữa trên hướng nhân ái thiết thực.

Vẫn theo lời đồng chí Võ Nguyên Giáp: Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn khoa học, hiện thực cách mạng. Người ta thường cho rằng Hồ Chí Minh là một nhà triết học hành động thì cũng có thể nói nhà nhân văn Hồ Chí Minh là một nhà nhân văn hành động - hành động nhằm giải phóng con người.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng - người học trò xuất sắc cũng là người cộng sự gần gũi của Bác Hồ - đã viết rất ân tình: Những tư tưởng lớn của Hồ Chủ tịch là những tình cảm lớn. Bác Hồ là “muôn vàn tình thương yêu” đối với đồng chí, đồng bào. Trong tình thương yêu đó, có chỗ cho mọi người, không quên, không sót một ai. Thương yêu và quan tâm chăm sóc mọi tầng lớp đồng bào, trai gái, già trẻ, đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, kiều bào ở nước ngoài. Bác Hồ đặc biệt ân cần chăm lo các chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nhân dân, là những người chiến đấu quên mình trên tiền tuyến; các cháu thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, là lớp người thừa kế sự nghiệp cách mạng; chị em phụ nữ anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang trong sản xuất và chiến đấu; đồng bào các dân tộc ít người, đã và sẽ tiếp tục có cống hiến cao quý vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Trong lòng Bác, đồng bào miền Nam, thành đồng Tổ quốc, chiếm một vị trí đặc biệt,...

Đã có biết bao câu chuyện sống động về tư tưởng nhân văn, lòng thương yêu con người và đức hy sinh cao cả của Bác, kể sao cho xiết.

Cả cuộc đời làm cách mạng, Bác “chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được độc lập, dân tộc ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Bác “ăn không ngon ngủ không yên khi đồng bào còn chịu khổ”.

Bác nêu tấm gương kính già, yêu trẻ. Kính già đến mức gửi thư chúc một phụ lão cứu quốc ở tuổi thượng thọ đã không tổ chức lễ mừng mà đem số tiền 500 đồng tiết kiệm được quyên vào Quỹ Kháng chiến, Hồ Chủ tịch tự xưng mình là cháu: “Cháu xin thay mặt Chính phủ cảm ơn cụ và trân trọng chúc cụ sống lâu và hoàn toàn mạnh khỏe”. Yêu trẻ đến mức Tết Trung thu nào cũng có lời thơ chúc. “Trung thu trăng sáng như gương/ Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng”. Và các cháu thì hát vang: “Không ai yêu Bác Hồ Chí Minh bằng chúng em nhi đồng”.

Với đồng bào các dân tộc, Bác từng nói: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê-đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”.

Với đồng bào các tôn giáo, bao giờ Bác cũng nêu lên cái tinh hoa của giáo lý. Với đồng bào theo đạo Thiên chúa, Bác viết: “Kinh thánh có câu: Ý dân là ý Chúa. Con đường yêu nước mà đồng bào đang đi là hoàn toàn đúng.” Với đồng bào theo đạo Phật, Bác viết: “Đồng bào Phật giáo cả nước, từ Bắc đến Nam đều cố gắng thực hiện lời Phật dạy là: Lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha” (Đem lại lợi ích và vui sướng cho mọi người. Quên mình vì người khác).

Với những người lầm đường, lạc lối, Người cũng mở lượng khoan dung: “Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Phải thực hành chữ BÁC ÁI”.

Nhà thơ Tố Hữu nói tự đáy lòng mình:

Người là Cha, là Bác, là Anh

Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ

Bác sống như trời đất của ta

Yêu từng ngọn lúa mỗi nhành hoa

Tự do cho mỗi đời nô lệ

Sữa để em thơ, lụa tặng già.

Và:

Bác ơi, tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông mọi kiếp người!

Tư tưởng nhân văn hiện thực, tình yêu thương bao la và cuộc sống bình dị của Bác có sức cảm hóa lớn. Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng cao đẹp của một nhân cách Con Người tầm cỡ thế giới.

Nhà báo Jean Roux trong báo Chiến đấu (Pháp) viết: “Từ ba mươi năm nay, trong số các nhân vật mà tôi gặp được, chắc chắn Cụ Hồ là đáng khâm phục nhất. Cụ là người hoàn toàn đáng được mọi người ca ngợi, bởi vì Cụ đã kết hợp đến mức nhuần nhuyễn phi thường chủ nghĩa anh hùng với đầu óc sáng suốt, lòng yêu nước tuyệt vời, tinh thần cách mạng trong sáng, thái độ cứng rắn trước cuộc sống với lòng nhân đạo đối với con người”.

Nhà báo Montaron trên báo Bằng chứng Thiên chúa giáo, cũng viết: “Cụ Hồ Chí Minh là một trong những chiến sĩ lần đầu tiên của thế giới thứ ba, của các dân tộc nghèo đói nhằm thèm khát một cuộc sống cho ra người… Cụ đã đem hết sức mình để mang lại cơm ăn nước uống cho những ai đói khát. Cụ đã bênh vực cho những người yếu hèn và mang lại nhân phẩm cho những người nghèo khổ”.

Burchett, nhà báo Australia nổi tiếng, nhận xét: Nói tới một người mà cả cuộc đời mình để lại ân tình sâu nặng cho nhân dân thì không có một ai khác ngoài Chủ tịch Hồ Chí Minh… Người ta không thể trở thành một Hồ Chí Minh nhưng ở Cụ Hồ, mỗi người có thể học một điều gì làm cho mình tốt hơn.

Và thật cảm động, Thủ tướng Jawaharlal Nehru trong cuộc tiếp đón Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Ấn Độ (năm 1958) đã nói một cách chân tình: “Chúng ta đã được tiếp xúc với một người. Người đó là một phần của lịch sử châu Á. Ngoài phần gặp gỡ một con người vĩ đại, chúng ta đã gặp một mảng lịch sử của lịch sử. Do đó, có lẽ chúng ta không chỉ được tăng thêm về suy nghĩ mà còn được tăng thêm cả về tầm vóc”.

Sẽ không thừa nếu nhắc lại: Năm 1990, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức UNESCO đã vinh danh Người là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới./.

Hà Đăng

Theo Tạp chí Tuyên giáo

Đàm Anh (st)

____________________

(*) Sách do nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2007. Những đoạn trích dẫn trong bài viết đều lấy từ cuốn sách này.

Thủ đoạn “vấy mực” hình ảnh người công an giúp dân trong đại dịch COVID-19
Ngày đăng 02/07/2021 | 17:03  | Lượt xem: 2803

Những chiến sĩ công an dầm mình giữa nắng nóng để hỗ trợ người dân thu hoạch mùa vụ; những chiến sĩ với bộ quân phục ướt sũng mồ hôi trên đồng ruộng để giúp dân gặt lúa hay bữa cơm vội vàng, bát mì tôm đạm bạc ăn vội tại chốt trực... Đó là những hình ảnh bình dị, chân thực, được người dân, báo chí đăng tải lên internet, nay trở thành chủ đề để số đối tượng phản động, chống đối chính trị xuyên tạc, công kích cho rằng đó là “diễn kịch”, “làm màu”.

Đáng tiếc thay, một số bài viết sai sự thật về lực lượng công an đăng tải lên mạng xã hội lại có một số người hùa theo bình luận, chia sẻ với những ngôn từ phản cảm, gây hiệu ứng xấu trên mạng xã hội trong thời gian qua.

Những ngày qua, làn sóng thứ 4 của dịch COVID - 19 đã tác động, ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống vật chất, tinh thần của người dân Việt Nam. Từ tháng 4/2021 đến nay, đại dịch COVID - 19 đã xuất hiện ở nhiều địa phương trên cả nước như Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương…

Song hành với các lực lượng chống dịch được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ, lực lượng CAND luôn đồng hành, là lực lượng xung kích tuyến đầu trên mặt trận chống dịch bệnh. Lực lượng Công an tại các vùng dịch được huy động tham gia tích cực vào kiểm soát người nhập cảnh từ nước ngoài về, đảm bảo an ninh trật tự tại các khu cách ly, thực hiện công tác hậu cần đảm bảo chỗ ăn ở sinh hoạt tại các khu cách ly và cả tham gia hỗ trợ truy vết… 

Công an Bắc Giang giúp dân thu hoạch vải thiều – một trong những hình ảnh đẹp, bình dị giữa đại dịch COVID-19.

Bên cạnh những khó khăn như dịch bệnh lây lan nhanh, số lượng các ca nhiễm nhiều, truy vết nguồn lây từ F0 với các lịch trình phức tạp, thời tiết nắng nóng... thì việc giúp đỡ người dân thu hoạch mùa vụ ở những vùng đang có dịch cũng là một trong những thách thức rất lớn đối với các lực lượng tham gia chống dịch, trong đó có lực lượng CAND. Điển hình như ở Bắc Giang, số lượng ca nhiễm tăng từng ngày, việc truy vết để xác định các ca F1, F2... để tiến hành cách ly y tế là một vấn đề rất khó khăn đối với lực lượng chống dịch.

Điều khó khăn hơn cả là trong số những người cách ly tập trung và cách ly tại nhà lại là những lao động chính trong gia đình, họ là những người trực tiếp tham gia vào các hoạt động sản xuất tại các xí nghiệp hoặc ở ruộng đồng. Rõ ràng, nếu như khi đến mùa vụ thu hoạch lúa, vải thiều, dưa hấu... mà không kịp thu hoạch, chỉ chậm ít ngày thì tất cả các sản phẩm đó có thể hư hỏng, dẫn đến thiệt hại lớn đến nguồn thu của bà con.

Nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của bà con khi mùa vụ tới mà không thể ra ngoài thu hoạch được, lực lượng Công an các địa phương đã không quản sự khắc nghiệt của thời tiết, các chiến sĩ xung phong đi giúp dân thu hoạch mùa vụ. Trong đoàn tham gia có cả cán bộ chiến sĩ nữ và có những đồng chí đang có con nhỏ. Thế nhưng, với tinh thần hăng say, nỗ lực vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân, các chiến sĩ đã không khước từ bất kỳ nhiệm vụ nào dù có khó khăn đến mấy.

Điển hình như, Đoàn Thanh niên Công an huyện Yên Dũng – Bắc Giang đã ra quân thực hiện nhiệm vụ vừa phòng, chống dịch, vừa thực hiện vận chuyển, tiêu thụ và gặt lúa giúp dân. Nhiều huyện ở Bắc Giang, cán bộ, chiến sĩ toả xuống các hộ dân, giúp bà con thu hoạch vải thiều đang vào độ chín, khi mà nhiều người trong gia đình họ đang phải cách ly. Những hình ảnh đó được chính người dân chụp đưa lên mạng xã hội, thể hiện sự trân trọng cán bộ, chiến sĩ Công an đã giúp các gia đình trong khó khăn, họ đưa lên với tình cảm chân thành, tự nhiên chứ không có sự “sắp xếp” nào cả.

Trong khi lực lượng Công an đang nỗ lực chống dịch, hỗ trợ cho người dân hạn chế những thiệt hại kinh tế do dịch bệnh gây ra bằng những hành động thiết thực như vậy thì có không ít đối tượng phản động, chống đối đã đăng tải các bài viết, đưa ra các bình luận tiêu cực về công tác phòng, chống dịch. Họ đưa ra các bài viết, bình luận bôi nhọ hình ảnh lực lượng CAND, cho rằng Công an đang “diễn kịch gặt lúa”, “diễn kịch hái vải thiều”...

Gần đây, sau khi những hình ảnh thu hoạch lúa giúp người dân của Đoàn Thanh niên Công an huyện Yên Dũng được người dân, các trang báo đăng tải, lan tỏa hình ảnh đẹp của người chiến sĩ CAND, lan tỏa sự chung tay góp sức toàn dân vào chống dịch và giúp đỡ bà con nhân dân thì trên trang facebook Blogger Điếu Cày (tức Nguyễn Văn Hải – đối tượng đang sống lưu vong ở nước ngoài, thường xuyên có các hoạt động chống phá Việt Nam) đã đăng tải một số hình ảnh kèm bình luận cho rằng Công an Việt Nam đang “diễn” như: “lúa trong ảnh còn xanh chưa tới tuổi gặt”; “khi gặt, người ta phải nhìn vào hướng lúa và gặt theo chiều cây lúa ngả và bông lúa rủ để khi cúi xuống bông lúa không chọc vào mặt”; “khi gặt có nhiều người dàn hàng ngang đều và mở rộng không gian để không vướng víu nhau!”; “cắt lúa chẳng bao giờ nhảy vào giữa đám ruộng mà cắt vì sẽ dẫm lên lúa, trừ khi cứu lúa đổ”…

Rõ ràng, nhìn vào hình ảnh thì chúng ta có thể thấy mặc dù lá lúa còn xanh nhưng bông lúa đã chín vàng và đã đến lúc thu hoạch. Với diện tích lúa của bà con đang phải cách ly ở vùng dịch huyện Yên Dũng, Bắc Giang rất lớn, trong khi lực lượng Công an có hạn về nhân lực, việc gặt lúa gấp rút như vậy cũng là để đảm bảo kịp thu hoạch lúa cho nhiều hộ gia đình. Hình ảnh mà Blogger Điếu Cày đưa ra có góc chụp thấp và khuất, khó thể thấy rõ được giữa vùng lúa đã được gặt với vùng lúa chưa gặt nên đối tượng đã sử dụng hình ảnh này để bình luận tiêu cực nhằm đánh lừa người xem, cho rằng những chiến sĩ công an “nhảy vào giữa đám lúa để gặt”!

Blogger Điếu Cày là một trang mạng chuyên đăng tải các bài viết sai sự thật, thường xuyên xuyên tạc, bôi nhọ uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các lực lượng chức năng như Công an, Quân đội. Với hơn 94 nghìn lượt theo dõi, việc trang này đăng tải hình ảnh và nội dung xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh người chiến sĩ CAND như trên tạo nên những hiệu ứng tiêu cực, những ấn tượng không tốt trên không gian mạng.

Không chỉ riêng Blogger Điếu Cày mà nhiều trang phản động như “Việt Tân”, “Nhật ký yêu nước”, “Dân làm báo”... cũng vào hùa để ăn theo những hình ảnh mang tính miệt thị, vu cáo cán bộ, chiến sĩ Công an Việt Nam. Đáng chú ý, khi những bài viết này đăng lên có khá nhiều tài khoản mạng xã hội vào a dua, ăn theo nói leo, đưa ra những bình luận khiếm nhã, thiếu tôn trọng lực lượng đang ngày đêm làm công tác phòng, chống dịch.

Việc sử dụng các hình ảnh rồi miệt thị, bôi nhọ cán bộ, chiến sĩ CAND không phải là một chiêu trò mới lạ của thế lực chống đối, thù địch. Tuy nhiên, với phương châm “bình mới, rượu cũ”, các thế lực thù địch, phản động vẫn gây ra sự hoang mang, dao động đối với một bộ phận người xem thiếu hiểu biết, gây nên các tâm lý hoài nghi, không tôn trọng sự thật khách quan. Nhiều đối tượng còn sử dụng video, hình ảnh được cắt ghép, sai sự thật nhưng quảng bá là ảnh thật, người thật nhằm đánh lừa người xem. Mục đích của những chiêu trò này là từng bước tác động nhằm thay đổi nhận thức tư tưởng của người dân tham gia mạng xã hội, là những bước cơ bản để tiến hành chia rẽ lực lượng Công an với nhân dân. 

Với những luận điệu trên, lật ngược lại vấn đề, thử hỏi những người đang xuyên tạc, vu khống, bôi nhọ lực lượng Công an, họ đã làm được gì để hỗ trợ cho nhân dân vùng dịch, cho đất nước khống chế dịch bệnh hay chưa?Với mỗi người dân khi tham gia mạng xã hội, hãy là người dùng mạng tỉnh táo, không tiếp nhận, lan truyền thông tin xấu độc trong tình hình diễn biến dịch COVID - 19 hết sức phức tạp như hiện nay. Đặc biệt là không tin, nghe và không chia sẻ, bình luận, lan truyền những luận xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ hình ảnh lực lượng CAND.

Nguồn: Báo Công an nhân dân điện tử

Link:http://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/Thu-doan-vay-muc-hinh-anh-nguoi-Cong-an-giup-dan-trong-dai-dich-COVID-19-647555/

Phản bác luận điệu “Chính sách đối ngoại giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế tại Đại hội XIII của Đảng chỉ là lý thuyết, phi thực tế”
Ngày đăng 03/04/2021 | 07:56  | Lượt xem: 2892

Những thành tựu của Việt Nam sau 35 năm đổi mới, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn là những luận cứ xác đáng để phản bác những quan điểm sai trái về chính sách đối ngoại giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế tại Đại hội XIII của Đảng.

Đại hội XIII của Đảng đã thành công rất tốt đẹp nhưng các thế lực thù địch vẫn đưa ra rất nhiều luận điệu sai trái nhằm xuyên tạc đường lối của Đảng, tạo ra sự nghi ngờ trong nhân dân về con đường mà chúng ta đang thực hiện. Cụ thể, chúng cho rằng chính sách đối ngoại giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế tại Đại hội XIII của Đảng là lý thuyết, phi thực tế. Chúng ngụy biện không thể có độc lập tự chủ trong hội nhập quốc tế; đã độc lập, tự chủ thì không thể hội nhập quốc tế và ngược lại, đã hội nhập quốc tế thì không thể có độc lập, tự chủ. Đồng thời, chúng còn cho rằng, thể chế chính trị của Việt Nam là khác biệt, không phù hợp với chuẩn mực chung của quốc tế; với một Đảng duy nhất cầm quyền càng không thể hội nhập quốc tế. Nhìn lại lịch sử phát triển chính sách đối ngoại của nước ta, đặc biệt những thành tựu sau 35 năm đổi mới, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn sẽ là những luận cứ xác đáng để phản bác những quan điểm sai trái đó.           

Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế

Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là mối quan hệ biện chứng, tất yếu, khách quan, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy và hỗ trợ lẫn nhau. Trong cương lĩnh và văn kiện của Đảng ta, mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế được thể hiện rất rõ. Đây chính là cơ sở để phát triển chính sách đối ngoại Việt Nam trong suốt những năm đổi mới vừa qua. Một trong các bài học được rút ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ mối quan hệ này, cụ thể là: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, trong bất cứ hoàn cảnh nào cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực”(1). Trong phần những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Cương lĩnh cũng nêu rõ: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(2).

Rõ ràng mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế được thể hiện rất cụ thể trong cương lĩnh của Đảng. Mối quan hệ này còn được thể hiện trong các nội dung của chính sách đối ngoại nói chung và được cụ thể hoá nội hàm của nó trong từng nội dung và điều kiện cụ thể. Đây là cơ sở, nền tảng xây dựng chính sách đối ngoại của đất nước chúng ta trong suốt những năm sau này.

Báo cáo Chính trị Đại hội XI của Đảng cũng nêu rõ đường lối đối ngoại của Việt Nam thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, nội dung cần thực hiện: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”… “Đặc biệt, chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển… giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”(3). Các văn kiện Đại hội XII, XIII đều tiếp tục khẳng định những nội dung nêu trên, cụ thể hoá mối quan hệ độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế cho từng thời kỳ phát triển của đất nước.

Trong Báo cáo Chính trị Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(4). Đồng thời, Báo cáo chính trị cũng nhấn mạnh bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của nhà nước với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh đối ngoại song phương với nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là với các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và gia tăng độ tin cậy. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia.

Đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng ta được thể hiện qua cương lĩnh và các văn kiện, Nghị quyết của Đảng đều khẳng định quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của Đảng là mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Mối quan hệ này được cụ thể hoá qua từng giai đoạn phát triển của đất nước, phù hợp điều kiện, bối cảnh phát triển cụ thể trên cơ sở của nguyên tắc lấy lợi ích quốc gia dân tộc là trên hết, bảo đảm hội nhập quốc tế luôn dựa trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập vì lợi ích đất nước, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh. Quá trình này cũng thể hiện sự phát triển của cả nhận thực và thực tiễn từ chú trọng hội nhập kinh tế đến hội nhập toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trên các lĩnh vực khác là điều kiện và hỗ trợ cho hội nhập kinh tế. Từ hội nhập đơn tuyến sang đa tuyến trên tất cả các cấp độ song phương, khu vực và toàn cầu.

Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là chính sách nhất quán trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.

Thực tiễn và kết quả chính sách đối ngoại độc lập tự chủ

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng vào khu vực và thế giới. Quá trình này đã thu được những kết quả hết sức to lớn, góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới. Điều đó cho thấy chủ trương đúng đắn, chủ động tích cực hội nhập quốc tế của Đảng và nhà nước ta. Trong quá trình triển khai, chính sách đối ngoại với mục tiêu bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế được quán triệt xuyên suốt trong mọi chính sách và hành động. Kết quả là ta đã từng bước hội nhập một cách sâu rộng vào khu vực và thế giới.

Năm 1990, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên minh châu Âu, năm 1995 chúng ta đã bình thường hoá quan hệ với Mỹ, gia nhập ASEAN, ký Hiệp định khung hợp tác với Liên minh châu Âu và làm đơn gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Năm 2000, Việt Nam ký Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ. Việc ký Hiệp định này có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đầu tư, thương mại và tang trưởng của nền kinh tế nước ta. Đến năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới.

Cùng với quá trình hội nhập khu vực và toàn cầu, Việt Nam cũng đã tăng cường hợp tác song phương, triển khai mạnh mẽ quan hệ hợp tác với các đối tác quan trọng, nhất là xây dựng khuôn khổ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện. Nhìn chung, các đối tác chiến lược và đối tác toàn diện mà Việt Nam ký kết đều là những đối tác quan trọng với lợi ích cả về kinh tế, chính trị và đối ngoại nói chung. Việt Nam là nước duy nhất trong ASEAN đã thiết lập khuôn khổ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện với toàn bộ 5 nước thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, toàn bộ nhóm nước G7 và 13/20 nước G20 và 8/9 nước trong ASEAN. Các đối tác này chiếm 8/10 thị trường xuất khẩu chính, với 60,7% tổng giá trị xuất khẩu; 9/10 thị trường nhập khẩu chính với 74,7% tổng giá trị nhập khẩu, 76,7% tổng lượng khách du lịch; đóng góp 74% tổng vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Cơ sở quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện đã ký kết đã góp phần củng cố môi trường hoà bình, hữu nghị hợp tác với các đối tác quan trọng, đặc biệt là với các nước lớn, với các nước láng giềng chung biên giới. Đồng thời, việc thiết lập quan hệ đối tác với các nước lớn, có vai trò quan trọng góp phần giúp Việt Nam xử lý tốt quan hệ với các nước lớn, đưa hợp tác trở thành chủ đạo, đồng thời tạo cơ chế và kênh trao đổi giảm thiểu sự khác biệt trong quan hệ với các nước này, tạo điều kiện để tăng cường lòng tin. Thông qua các quan hệ song phương đã được thiết lập đã tạo ra sự đan xen lợi ích, giúp Việt Nam tranh thủ được nguồn lực quốc tế để phát triển đất nước. Ngoài ra, thông qua các đối tác quan trọng này, đã góp phần nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, thể hiện thông qua vị trí của ta trong chính sách đối ngoại của các nước cũng như trong các khuôn khổ hợp tác đa phương.

Kết quả hội nhập quốc tế của đất nước được thể hiện trên các lĩnh vực cụ thể sau đây:

Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chính trị. Hội nhập quốc tế về chính trị được thực hiện tương đối nhanh, sâu rộng. Chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, Việt Nam là bạn là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ hội nhập của Việt Nam với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược. Từ một nước bị bao vây cấm vận, với chính sách đối ngoại đúng đắn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã nhanh chóng thiết lập quan hệ hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng. Chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới. Trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đồng thời, chúng ta đã chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc và các tổ chức khu vực quan trọng. Hợp tác đa phương theo phương châm chủ động, tích cực tham gia, nhất là vào quá trình xây dựng và định hình các quy tắc và luật lệ mới, phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương. Việc tham gia các cơ chế đa phương một cách tích cực chủ động là để trực tiếp bảo đảm các lợi ích an ninh, phát triển và vị thế của đất nước. Năm 2020 Việt Nam với vai trò là Chủ tịch ASEAN và là Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc Việt Nam đã thể hiện rất tốt vai trò của mình, có đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới. Với thế và lực trong nước tăng lên cùng với chính sách đối ngoại chủ động, tích cực và hiệu quả vị thế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế.

Về hội nhập kinh tế quốc tế. Đến nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Độ mở của nền kinh tế nước ta hiện nay vào loại cao nhất thế giới với tỷ trọng xuất khẩu trên GDP là hơn 200%. Việt Nam đã tham gia vào hầu hết các hiệp định đa phương thế hệ mới. Với các kết quả hội nhập kinh tế sâu, rộng như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của Việt Nam mở rộng thị trường, kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu. Rõ ràng, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới cả về chiều rộng, chiều sâu và toàn diện. Với những Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới vừa được ký kết có tính toàn diện, quy mô rộng, mức độ cam kết cao, điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực, trong đó bao hàm nhiều nội dung mới như thương mại điện tử, phát triển bền vững, các biện pháp sau biên giới, đồng bộ chính sách, giải quyết chính sách giữa nhà đầu tư và nhà nước đem lại rất nhiều cơ hội cho phát triển, đồng thời đòi hỏi những nỗ lực trong nước rất cao để có thể đem lại kết quả như mong muốn. Thông qua hội nhập quốc tế, kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế nước ta tăng rất nhanh, từ 1,74 tỷ USD năm 1986 lên 10 tỷ USD năm 1996, 45 tỷ USD năm 2006 và 287,8 tỷ USD năm 2020(5). Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần phát huy nội lực, tranh thủ được nguồn lực nước ngoài, đặc biệt là công nghệ và quản trị hiện đại. Thông qua hội nhập quốc tế, Việt Nam đã thu hút được lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn, góp phần bổ sung nguồn lực trong nước. Nguồn vốn FDI thu hút vào nước ta tăng rất nhanh, từ 428,5 triệu USD năm 1991 lên 4 tỷ USD năm 2006 và 20 tỷ USD năm 2020(6). Năm 2020, đã có 112 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, trong đó, dẫn đầu là Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản. Đồng thời, hội nhập quốc tế cũng là áp lực giúp đẩy mạnh cải cách mạnh mẽ trong nước để bảo đảm điều kiện hội nhập thành công và hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng cao của Việt Nam, góp phần đưa kim ngạch xuất nhập khẩu tăng liên tục trong nhiều năm qua, góp phần chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu theo hướng chất lượng hơn.

Tuy nhiên, quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế cũng cho thấy cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, qua những cuộc khủng hoảng, hoặc những biến động của thế giới cho thấy để hội nhập thành công phải có nội lực mạnh, đồng thời phải đa phương hoá, đa dạng hoá các đối tác, các thị trường để tránh những rủi ro và lệ thuộc. Kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài cũng cho thấy cần phải nhận thức sâu sắc hiệu quả của thu hút đầu tư, nhất là giai đoạn hiện nay, phải bảo đảm thu hút được công nghệ cao, công nghệ sạch và làm tốt việc chuyển giao công nghệ cũng như gắn kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.

Từ một nước bị bao vây cấm vận, với chính sách đối ngoại đúng đắn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã nhanh chóng thiết lập quan hệ hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng.

 

 Hội nhập trong lĩnh vực văn hoá xã hội. Cùng với sự hội nhập nhanh, sâu rộng và toàn diện trong lĩnh vực kinh tế, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hoá - xã hội cũng có những bước phát triển quan trọng. Hội nhập với tốc độ cao hơn, toàn diện hơn, đa dạng về hình thức, phương thức, đối tác và chất lượng hội nhập ngày càng nâng cao. Việt Nam đã ký hơn 100 thoả thuận, điều ước quốc tế song phương có nội dung văn hoá, đã thu hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam ngày càng nhiều. Các hình thức giao lưu văn hoá, phim ảnh, thời trang… của Việt Nam với quốc tế ngày càng nhiều.

Hội nhập văn hoá cũng là cơ hội để Việt Nam quảng bá đất nước, con người, văn hoá Việt Nam và tiếp thu giá trị văn hoá các nước. Nhờ có hội nhập mạnh mẽ về văn hoá mà bạn bè quốc tế đến Việt Nam ngày càng nhiều. Trong suốt nhiều năm vừa qua, khách du lịch đến Việt Nam đều tăng với tốc độ cao, góp phần cả về phát triển kinh tế và văn hoá, xã hội. Cũng từ thành công của hội nhập trong lĩnh vực này đưa tới việc hình thành nhiều dự án, nhiều công trình văn hoá tại Việt Nam với quy mô ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân ta có cơ hội tiếp cận và thưởng thức những giá trị văn hoá tiêu biểu của nhiều quốc gia trên thế giới. Từ đó, thúc đẩy tiềm năng sáng tạo của nhân dân và khuyến khích giao lưu với cộng đồng quốc tế. Nguồn lực và động lực về văn hoá- xã hội được tăng cường sẽ là yếu tố quan trọng để chúng ta giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Đồng thời, hội nhập quốc tế cũng tạo công ăn việc làm, góp phần giảm nghèo bền vững ở Việt Nam. Sau 35 năm đổi mới và hội nhập, tỷ lệ nghèo giảm mạnh. Theo số liệu thống kê, tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ gần 60% vào năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998, xuống còn 13,4% năm 2008 và đến năm 2016 chỉ còn 5,8%.

Hội nhập trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh.

Thực hiện chính sách hội nhập quốc tế toàn diện, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng an ninh cũng không ngừng được phát triển và mở rộng. Hội nhập quốc phòng - an ninh vừa phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước vừa góp phần bảo vệ độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh mới. Việt Nam đã chuyển từ chủ trương tham dự, sang phát huy vai trò thành viên có trách nhiệm trên nhiều diễn đàn khu vực và toàn cầu. Nội dung hội nhập quốc tế để giữ nước từ xa, từ sớm, giữ nước từ khi “nước còn chưa nguy”. Việt Nam đã từng bước mở rộng hợp tác quốc phòng - an ninh với các nước lớn và các nước trong khu vực. Việt Nam đã đẩy mạnh thực hiện các cơ chế đối thoại Quốc phòng - An ninh, giao lưu biên phòng với các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia, trao đổi hữu nghị của tàu hải quân được đẩy mạnh. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng chính thức với gần 70 nước, đặt văn phòng tuỳ viên quân sự tại hơn 30 nước và hơn 40 nước có văn phòng tuỳ viên quân sự tại Việt Nam. Việt Nam cũng đã tham gia tích cực vào các diễn đàn an ninh quốc phòng khu vực và từng bước tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế về an ninh quân sự toàn cầu. Việt Nam cũng đã tham gia các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc. Việt Nam đã gửi các sỹ quan thông tin đến các Phái bộ gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc tại Cộng hoà Trung Phi, Nam Xu Đăng và tiếp theo đó đã triển khai các bệnh viện dã chiến cấp 2 và công binh. Như vậy, Việt Nam không chỉ giữ vững độc lập chủ quyền của Tổ quốc mà còn chủ động, tích cực đóng góp vào việc duy trì hoà bình, an ninh quốc tế.

APEC 2017 đã được tổ chức rất thành công tại Việt Nam

Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là chính sách nhất quán trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Về mặt lý luận đây là mối quan hệ biện chứng, tất yếu, khách quan, bất kỳ quốc gia nào muốn hội nhập quốc tế thành công đều phải vận dụng hợp lý mối quan hệ này. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong suốt những năm đổi mới vừa qua đã thể hiện nhất quán và từng bước cụ thể nội dung của chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế cho từng giai đoạn phù hợp với bối cảnh nhất định. Đó cũng là quá trình phát triển quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Thực tiễn triển khai và kết quả đạt được sau 35 năm đổi mới cho thấy chính sách đối ngoại trên là hoàn toàn đúng đắn và khoa học. Hội nhập quốc tế của Việt Nam đã phát triển nhanh chóng cả về chiều rộng và chiều sâu. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới, xây dựng đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với nhiều nước, trong đó có nhiều nước lớn, có vị trí và tầm ảnh hưởng quan trọng của thế giới và khu vực. Việt Nam cũng tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng và thực sự có nhiều đóng góp quan trọng và có trách nhiệm trong những tổ chức này. Quá trình đó, Việt Nam cũng đã từng bước hội nhập toàn diện trên tất cả các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội và quốc phòng - an ninh. Trong đó hội nhập kinh tế là nòng cốt, là cơ sở, hội nhập trong các lĩnh vực khác là toàn diện và bổ sung cho hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn có ý lịch sử của đất nước trong 35 đổi mới vừa qua.

Những thành tựu to lớn trong hội nhập quốc tế nói riêng, trong công cuộc đổi mới của Việt Nam nói chung thực sự là những luận cứ xác đáng nhất để bác bỏ những luận điệu sai trái, thù địch về lĩnh vực này.

Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo điện tử

Link:http://www.tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/phan-bac-luan-dieu-chinh-sach-doi-ngoai-giu-vung-doc-lap-tu-chu-trong-hoi-nhap-quoc-te-tai-dai-hoi-xiii-cua-dang-132477

(1) (2) (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, tr. 66, tr.83, 84, tr.187.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị Đại hội Đảng XIII, tr. 49.

(5) (6) Nguồn Tổng cục Thống kê.

Thông báo tuyển dụng thực tập sinh đi thực tập kỹ thuật tại Nhật Bản đợt 3/2018
Ngày đăng 20/09/2018 | 19:15  | Lượt xem: 6582

.

Xem chi tiết Thông báo tại đây
Thông báo tuyển dụng lao động của doanh nghiệp
Ngày đăng 16/04/2018 | 17:54  | Lượt xem: 7056

.

Thông tin tuyển dụng của công ty May 10, xem chi tiết tại đây

Thông tin thi tiếng Hàn, xem chi tiết tại tiết tại đây

Thông báo của UBND quận Long Biên về tuyển dụng lực lượng bảo vệ dân phố thực hiện quản lý đô thị phường thuộc quận Long Biên
Ngày đăng 02/06/2016 | 15:11  | Lượt xem: 7935

Thông báo của UBND quận Long Biên về tuyển dụng lực lượng bảo vệ dân phố thực hiện quản lý đô thị phường thuộc quận Long Biên

Thông báo tuyển dụng lực lượng bảo vệ dân phố thực hiện quản lý đô thị phường thuộc quận Long Biên Xem nội dung thông báo tại đây
Thông báo Về việc tuyển dụng lao động hợp đồng làm bưu tá tại UBND phường Thạch Bàn
Ngày đăng 10/10/2015 | 10:09  | Lượt xem: 7690

UBND phường Thạch Bàn thông báo cần tuyển dụng 01 lao động làm công tác bưu tá tại UBND phường Thạch Bàn

Xem chi tiết thông báo số 488/TB-UBND ngày 29/9/2015 của UBND phường Thạch Bàn tại đây.
Thông báo lịch tổ chức tuyển dụng viên chức làm việc tại các cơ sở giáo dục năm 2015
Ngày đăng 17/09/2015 | 14:31  | Lượt xem: 7713

.

Xem thông tin chi tiết tại đây.